Thánh tích Kushinagar - Ấn Độ
Trong kinh tạng đức Phật dạy: Có tám nguyên nhân làm cho trái đất rung
chuyển, chấn động mạnh, sự kiện đức Như Lai nhập Niết-bàn là một trong
những nguyên nhân đó:
“Này Ananda, có tám nhân, có tám duyên khiến đại địa chấn động. Thế nào
là tám? Này Ananda, đại địa này thiết lập trên nước, nước ở trên gió và
gió ở tại hư không. Này Ananda, đến thời đại phong khởi lên, gió lớn
khi thổi làm nổi sóng nước, và khi nước nổi sóng thì quả đất rung động.
Đó là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất, đại địa chấn động. Lại nữa này
Ananda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được chế ngự, hay
hàng chư Thiên có đại thần thông, có đại uy lực; những vị này quán địa
tánh có hạn, quán thủy tánh vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này
rung động, chuyển động mạnh v.v… Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai nhập
vô dư y Niết Bàn, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động
mạnh. Đó là nhân thứ tám, duyên thứ tám, khiến đại địa chấn động. Này
Ananda, do tám nhân này, tám duyên này, khiến đại địa chấn động.”[1]
Gần 50 năm thuyết pháp độ sanh bất quyện, đức Thế Tôn đã đem ánh sáng
giác ngộ hướng đạo quần sanh, đưa những người hữu duyên đến bến bờ giải
thoát. Vào năm cuối cùng của cuộc đời vĩ đại ấy, tại điện thờ Capala,
thành Vaishali (Tỳ-xá-ly), đức Phật đã tuyên bố với Anan cùng đại chúng
Tỳ kheo ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn tại rừng cây Ta La thuộc thành
Kushinagar (Câu-thi-na): “các Tỷ-kheo, đây là lời Ta nhắn nhủ các Ngươi.
Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát, không lâu Như
Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt
độ.”[2]
Nơi đức Phật nhập Niết Bàn, Kushinagar đã trở thành một trong bốn thánh
tích thiêng liêng nhất của Phật giáo (Lumbini, Bodhgaya, Sarnath và
Kushinagar). Khi hành hương, chiêm bái bốn thánh tích (Tứ động tâm) trên
miền đất Phật thiêng liêng, có lẽ Kushinagar là thánh tích để lại trong
ta những ấn tượng bùi ngùi và xúc động nhất. Nếu thánh tích Lumbini
(Lâm-tỳ-ni), nơi nhơn thiên và muôn vật hoan ca chào đón sự đản sanh của
đấng Từ phụ, thì Kushinagar là nơi trời người và muôn vật rơi lệ u
buồn, tiễn biệt đấng Thiên nhơn sư. Nếu Bodhgaya (Bồ-đề-đạo-tràng) là
đạo tràng thiêng liêng, nơi bừng tỏa ánh sáng giác ngộ của đức Phật
Thích Ca, thì Kushinagar là nơi ánh đạo huy hoàng của Ngài đã tắt lịm.
Nếu Sarnath (vườn Lộc Uyển) là thánh tích thiêng liêng, nơi khơi nguồn
của dòng pháp giải thoát, thì Kushinagar là nơi khô cạn chấm dứt suối
nguồn giải thoát đang tuôn chảy từ kim khẩu của bậc Đạo sư. Bởi vậy,
những người con Phật chúng ta, mấy ai tránh khỏi cảm giác xúc động, u
buồn khi chiêm bái, đảnh lễ thánh tích này.
Thánh tích Kushinagar toạ lạc tại thành Kushinagar, thuộc tiểu bang
Utta Pradhesh, cách ga xe lửa Gorakhpur khoảng 50 km. Nhìn vào bản đồ Ấn
Độ, chúng ta có thể xác định vị trí của Kushinagar toạ lạc gần như
trung tâm của những thánh tích khác như: Lumbini (Lâm-tỳ-ni thuộc nước
Nepal), Vaishali (Tỳ-xá-li), Sarnath (vườn Lộc-uyễn), v.v… Căn cứ theo
đường chim bay, Kushinagar cách cách Lumbini khoảng 100 km, cách
Vaishali khoảng 150 km, cách Sarnath khoảng 200 km và cách Bodhgaya
khoảng 300 km.
Thành Kushinagar, từ thời đức Phật cho đến hàng chục thế kỉ về sau, vẫn
là một nơi xa xôi, hẻo lánh, dân cư thưa thớt. Kushinagar không có những
vương thành lộng lẫy, những trung tâm thương mại, phố xá phồn hoa như
thành Savatthi (Xá-vệ), thành Rajagaha (Vương-xá), thành Baranasi
(Ba-la-nại), v.v… Tuy nhiên, vào thời quá khứ xa xưa, Kushinagar là một
vương thành giàu sang cùng tột, dân cư đông đúc, nhưng trải qua sự tàn
phá của thời gian, của vô thường huỷ diệt, đến thời của đức Phật Thích
Ca cũng như nhiều thế kỉ về sau, thành Kushinagar chỉ là những rừng cây
Ta La xa vắng, dân cư thưa thớt… điều đó chúng ta có thể biết được qua
câu chuyện đối thoại giữa đức Phật và tôn giả Anan: Khi nghe đức Phật
tuyên bố ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn tại thành Kushinagar, tôn giả
Anan đã vội thỉnh đức Phật trụ thế: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho
đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho
chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc cho loài Trời và loài Người.” [3]. Nhưng lúc ấy
đã quá muộn rồi, vì đức Thế Tôn đã xả bỏ thọ mạng, đấy là một lỗi lầm
lớn của tôn giả Anan [4]. Tôn giả Anan đã ngấn lệ thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, còn có những thành lớn khác. Một là Chiêm-bà, hai là
Xá-vệ, ba là Bệ-xá-ly, bốn là Vương xá, năm là Ba-la-nại, sáu là
Ca-tỳ-la-vệ. Sao Thế Tôn không nhập Niết-bàn ở các nơi ấy, mà quyết định
tại thành bằng đất nhỏ hẹp này, một thành nhỏ hẹp nhất trong các thành?
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo: Này A-nan, ngươi chớ nói rằng đây là thành
đất nhỏ hẹp, là thành nhỏ nhất trong các thành. Vì sao? Vì thuở quá khứ,
thành Câu-thi-na này tên là Câu-thi vương thành, giàu có cùng tột, dân
chúng đông đúc.”[5]
Như vậy, trong thời quá khứ xa xưa Kushinagar là một vương thành phồn
hoa, dân cư đông đúc và lúc đức Phật nhập Niết-bàn thì thành này chỉ là
một thành nhỏ hoang vắng, dân cư thưa thớt, với những cánh rừng Ta la
xanh ngát.
Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, kim thân của Ngài được hoả tang theo
nghi thức tang lễ của một vị Chuyển luân Thánh vương. Sau lễ hoả táng,
để tránh sự xung đột tranh giành xá lợi của đức Phật, bộ tộc Malla tại
Kushinagar đã đồng ý chia xá lợi Ngài làm tám phần đều nhau cho tám vị
quốc vương trong tám nước xây tháp cúng dường. Bộ tộc Malla cũng xây một
bảo tháp tại nơi lễ Trà tỳ của đức Phật để phụng thờ tro than lúc hoả
táng còn lại. Ngôi Tháp này hiện nay vẫn còn.
Đến với thánh tích Kushinagar, ngày nay, chúng ta sẽ được chiêm bái hai
nơi thiêng liêng nhất: nơi đức Phật nhập Niết-bàn (gồm tháp Niết-bàn,
chùa Niết-bàn…) và nơi diễn ra lễ Trà tỳ kim thân của đức Thế Tôn.
Nơi đức Phật nhập Niết-bàn: Các sử liệu về Kushinagar chưa xác định rõ
sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, nơi đức Phật nhập Niết-bàn có những gì.
Ngôi tháp Niết Bàn, chùa Niết Bàn và những phế tích còn lại mà chúng ta
thấy ngày nay được các nhà khảo cổ xác định xây dựng từ thời vua Asoka
(vua A Dục, thế kỉ thứ 3 trước Tây lịch) trở về sau.
Tháp Niết Bàn (Mahaparinirvana Stupa): Ngôi tháp Niết Bàn to lớn mà
chúng ta thấy hiện nay có chiều cao khoảng 45 mét, đường kính khoảng 10
mét. Đấy là một ngôi tháp có màu trắng, xây kín xung quanh, không có cửa
ra vào. Tháp được xây trên một nền gạch cao khoảng 2,7 mét; tháp có
hình tròn trụ, với mái hình vòm tròn, phía trên vòm tròn ấy được xây một
khối hình trụ nhọn dần lên tận đỉnh, hình trụ ấy gồm ba tầng, cao
khoảng 5,5 mét.
Nguyên thuỷ ngôi bảo tháp này được các nhà khảo cổ cho rằng, nó được xây
dựng bởi vua Asoka vào thế kỉ thứ 3 trước Tây lịch. Vua Asoka, sau khi
từ bỏ đời sống một bạo chúa hung tàn, ông đã quay về với Phật giáo và
dùng chánh pháp để trị dân. Để cho dân chúng toàn cõi Ấn Độ được thấm
nhuần công đức, vua Asoka đã thu thập xá lợi của đức Phật trong tám ngôi
tháp của tám vị quốc vương thời xưa, chia đều ra tám vạn bốn ngàn phần
và xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp trên toàn cõi Ấn để dân chúng được
chiêm bái, cúng dường, tăng trưởng công đức. Bảo tháp Niết Bàn là một
trong những ngôi tháp ấy.
Tháp Niết Bàn được xây tại thánh tích này để tôn thờ xá lợi của đức
Phật, đồng thời để kỉ niệm nơi đức Phật đã xả bỏ báo thân sanh diệt, an
trú vào Niết-bàn bất diệt. Gần mười thế kỉ trôi qua kể từ thời vua
Asoka, đến thế kỉ thứ bảy, ngài Huyền Trang đến chiêm bái thánh tích này
thì bảo tháp Niết Bàn vẫn còn và ngài đã ghi chép trong cuốn kí sự của
mình: “Về phía tây bắc của thành này khoảng 3 đến bốn dặm, băng qua dòng
sông Ajitavati (A-tỳ-ba-phạt-để), không xa về phía tây của bờ sông này,
chúng ta đến một rừng cây Ta La. Cây Ta La giống như cây Huk, vỏ cây
màu trắng xanh, lá cây lóng lánh và trơn dịu. Chổ này có bốn cây thật
cao, đây là nơi đức Như Lai đã nhập Niết-bàn, tại đây có tinh xá bằng
gạch rất lớn. Trong tinh xá này có một tượng đức Phật nhập Niết-bàn,
Ngài nằm quay đầu về hướng bắc như đang ngủ. Bên cạnh tinh xá này là bảo
tháp do vua Asoka xây dựng, mặc dù đã hư sụp, nhưng cũng còn cao gần 60
mét (200 feet)…”[6]
Lịch sử văn hoá thế giới nói chung hay của Phật giáo nói riêng luôn có
những trang sử bi thương về sự tàn phá kinh khiếp của giặc Hồi cực đoan
và tàn ác. Vào những thế kỉ 12, 13, các thánh tích Phật giáo bị giặc Hồi
đố kị và đốt phá hoang tàn; nơi đức Phật Niết-bàn cũng như bảo tháp
Niết Bàn đã bị thiêu rụi và đập phá, trở thành những đống gạch đổ nát,
hoang tàn. Thánh tích Kushinagar nói chung và bảo tháp Niết Bàn nói
riêng hầu như đã bị lãng quên không người nhắc đến. Gần 600 năm sau, thế
kỉ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng người Anh tên là Cunningham, người có
công lớn trong cuộc khảo cổ và hồi phục lại các thánh tích Phật giáo để
giới thiệu mọi người trên thế giới. Ông đã căn cứ vào cuốn Đại Đường Tây
Vực Ký của ngài Huyền Trang và tiến hành khảo cổ các thánh tích thiêng
liêng của Phật giáo. Một công việc rất khó khăn và vất vả, ông đã huy
động những người cộng sự của mình âm thầm làm việc giống như một vị
Bồ-tát vô danh trong công cuộc đóng góp xây dựng vào sự phục sinh của
Phật giáo tại Ấn Độ. Dưới sự hổ trợ đắc lực của người phụ tá của ông,
nhà khảo cổ Carllleyle, các di tích tại nơi đức Phật nhập Niết-bàn gồm
các nền tháp, chùa viện, tượng Phật… đã được phát hiện và bảo vệ cẩn
thận. Với sự phát hiện khám phá đầy ý nghĩa ấy, nền tháp Niết Bàn đã
được xác định. Đến năm 1927, với sự đồng ý của chính phủ Ấn Độ, cộng
đồng Phật tử Mianma đã phát tâm kiến tạo ngôi tháp Niết Bàn ngay trên
nền móng cũ của bảo tháp do vua Asoka xây dựng ngày xưa. Gần 50 năm sau,
vào năm 1972, các Phật tử Mianma lại phát tâm trùng tu bảo tháp này một
lần nữa, và đấy chính là bảo tháp Niết Bàn hùng vĩ mà chúng ta thấy
ngày nay.
Chùa Niết Bàn (Mahaparinirvana temple):
Bước vào thánh tích Kushinagar nơi đức Phật nhập Niết-bàn, hình ảnh to
lớn đầu tiên chúng ta diện kiến được là tháp đại Niết Bàn, kế đó là chùa
Niết Bàn. Chùa Niết Bàn được xây trước bảo tháp Niết Bàn và có chung
một nền móng với ngôi bảo tháp này. Chùa Niết Bàn có một kiến trúc rất
riêng so với các loại kiến trúc chùa tháp khác mà chúng ta từng thấy.
Ngôi chùa này có chiều ngang dài gần gấp đôi chiều dọc, mái chùa là một
hình cong nhọn lên ở giữa, từ xa nhìn đến giống như một hình lăng trụ to
lớn, có bốn cửa sổ hình tròn cao lớn gần trên mái trông ra bốn hướng.
Trước hành lang chùa có bốn trụ cột sơn màu đỏ rất lớn, chùa được xây
dựng để thờ tượng Phật nhập Niết-bàn.
Chúng ta chưa xác định được nguyên thuỷ của ngôi chùa được xây vào thời
điểm nào. Vào đầu thế kỉ thứ 5, Ngài Pháp Hiển, vị cao Tăng người Trung
Quốc, đến chiêm bái thánh tích này có mô tả trong tác phẩm Phật Quốc Kí
của mình là nơi đây có nhiều ngôi tinh xá, chùa, tháp… nhưng không thấy
đề cập đến tên chùa Niết Bàn. Nhưng chắc chắn là thế kỉ thứ năm ngôi
chùa Niết Bàn đã được xây dựng rồi, vì tượng đức Phật nhập Niết-bàn thờ
trong ngôi chùa này được đúc vào thời điểm ấy. Vào thế kỉ thứ 7, ngài
Huyền Trang đến chiêm bái đã đề cập đến ngôi chùa này: “Chổ này có bốn
cây (Ta La) thật cao, đây là nơi đức Như Lai đã nhập Niết-bàn, tại đây
có tinh xá bằng gạch rất lớn. Trong tinh xá này có một tượng đức Phật
nhập Niết-bàn, Ngài nằm quay đầu về hướng bắc như đang ngủ. Bên cạnh
tinh xá này là bảo tháp do vua Asoka xây dựng, mặc dù đã hư sụp, nhưng
cũng còn cao gần 60 mét (200 feet). Phía trước tinh xá là một trụ đá ghi
chép về sự Niết-bàn của đức Như Lai. Mặc dù các ghi chép vẫn còn, nhưng
không thấy đề cập ngày, tháng hay năm…”[7]
Ngôi tinh xá ngài Huyền Trang mô tả chính là ngôi chùa Niết Bàn. Ngôi
chùa ấy đã đốt cháy và đập phá hoang tàn vào thế kỉ 12, 13 bởi những đội
quân hung tà Hồi giáo đến từ Trung đông. Mãi đến năm 1876, trợ lý của
ngài Cunningham, nhà khảo cổ Carlleyle đã xác định nền móng của ngôi
chùa Niết Bàn ngày xưa, và đến năm 1956 ngôi chùa Niết Bàn đã được trùng
kiến lại, đây chính là ngôi chùa Niết Bàn mà chúng ta thấy ngày nay.
Tượng đức Phật nhập Niết Bàn: một trong những bảo vật ý nghĩa nhất tại
thánh tích này là tượng đức Phật nhập Niết Bàn. Trong ngôi chùa Niết Bàn
chỉ thờ duy nhất pho tượng này. Đây là một trong những kiệt tác về nghệ
thuật tranh tượng Phật giáo vào thời đại Kumargupta (413-455), một
triều đại đã đến đỉnh cao của nghệ thuật sáng tác tranh tượng Phật giáo.
Trong triều đại này, có nhà điêu khắc Haribhada đã tạc pho tượng này từ
một khối đá lớn có tên là Chunar. Pho tượng có chiều dài khoảng 6 mét,
được đặt trên một bệ đá hình chữ nhật cao khoảng nửa mét và tôn thờ
trong chùa Niết Bàn. Tượng nằm nghiên bên hữu, đầu tượng hướng về phương
bắc và gối lên tay phải, mặt tượng hướng ra cửa chánh nam, tay trái đặt
xuôi trên hông, hai chân song song chồng lên nhau. Pho tượng đã thể
hiện đầy đủ các tướng hảo và vẻ đẹp của một đấng Thế Tôn.
Một điều đáng buồn là pho tượng đã bị đập gảy làm nhiều phần.
Trong lúc khảo cổ khai quật từ đống gạch đổ nát của tháp và chùa Niết
Bàn, Cunningham và các cộng sự của mình đã phát hiện pho tượng này vào
năm 1876, đoàn khảo cổ của ông cũng phát hiện những bộ hài cốt phủ phục
trên pho tượng này; đây rất có thể là những vị Tăng sĩ đã lấy thân mình
bảo vệ thánh tượng, không cho những kẻ cuồng tín đập phá tôn tượng. Ngày
nay, pho tượng đã được ráp lại và thờ đúng vị trí ngày xưa; dù bị đập
gảy nhiều phần, nhưng thánh tượng đã được hồi phục lại và trở thành một
trong những bảo vật thiêng liêng tại thánh tích Kushinagar.
Các di tích tại nơi đức Phật nhập Niết-bàn: Đến với thánh tích này,
Ngoài bảo tháp và chùa Niết Bàn trang nghiêm hùng vĩ, chúng ta còn chứng
kiến được nhiều di tích khác trong khuôn viên đức Phật nhập Niết-bàn.
Xung quanh tháp và chùa Niết Bàn, có nhiều chùa tháp và tự viện được xây
dựng từ thời xa xưa. Vào khoảng đầu thế kỉ thứ 5, ngài Pháp Hiển, một
vị cao Tăng người Trung Quốc đến chiêm bái nơi này, ngài cho biết nơi
đây có nhiều ngôi chùa, tháp, tự viện… Hơn hai thế kỉ sau, thế kỉ thứ 7,
ngài Huyền Trang đến chiêm bái thánh tích này, ngài cho biết nơi đây có
rất nhiều ngôi bảo tháp như: bảo tháp Niết Bàn; tháp tưởng niệm vị đệ
tử cuối cùng của đức Phật, tôn giả Subhada (Tu-bạt-đà-la), vị đệ tử đặt
biệt lớn tuổi (120 tuổi) cầu pháp, chứng đắc thánh quả và nhập Niết-bàn
chỉ trong một đêm, cùng đêm đức Phật nhập Niết-bàn; tháp tưởng niệm tiền
thân của đức Phật từng làm con chim trỉ và con nai để cứu độ chúng
sanh; tháp tưởng niệm vị thần kim cang, Vajrapani ngã xuống đất bất
tỉnh, khi nghe đức Phật đã nhập Niết-bàn v.v… [8]
Cách bảo tháp và chùa Niết Bàn khoảng 200 mét về hướng tây nam có một
nền tháp tên là Matha Kuar, tháp này được xây dựng để thờ tượng Phật
Matha Kuar (Hoàng tử mất). Theo các sử liệu Phật giáo, tháp này được xây
bởi những người thuộc dòng tộc Sakya (Thích Ca) để tôn thờ tượng đức
Phật; vì trong tâm của họ, đức Phật lúc nào cũng là vị hoàng tử tài ba,
khả kính, nên họ đặt tên cho tháp này là Matha Kuar (Hoàng tử mất). Nhìn
vào nền tháp chúng ta có thể ước đoán được ngôi tháp ngày xưa ắt hẳn
cao lớn và đẹp lắm. Những cây Ta La ngày xưa, lúc đức Phật nhập Niết-bàn
và lúc ngài Huyền Trang trông thấy hiện nay không còn nữa. Nhưng ngày
nay cũng có một số cây Ta La được trồng trước bảo tháp và chùa Niết Bàn,
cũng như một số nơi trong khuôn viên đức Phật nhập Niết- bàn. Với sự
quan tâm và bảo vệ của chính phủ Ấn, ngày nay, nơi đức Phật nhập
Niết-bàn đã trở thành một hoa viên xinh đẹp, một thánh tích thiêng liêng
của người con Phật.
Nơi trà tỳ kim thân của đức Phật: Rời khuôn viên đức Phật nhập Niết-bàn,
đi bộ gần 2 km, chúng ta đến một hoa viên xinh đẹp khác, đó là nơi diễn
ra lễ Trà tỳ kim thân của đức Thế Tôn. Ngày xưa, nơi đức Phật nhập
Niết-bàn và nơi trà tỳ kim thân đức Phật là một, đều thuộc thánh tích
Kushinagar; nhưng vì khu vực này quá rộng, nên ngày nay được chia ra làm
hai khu vực để chăm sóc và bảo vệ tốt hơn.
Tháp Trà Tỳ (Angrachaya Stupa): Tại khuôn viên diễn ra lễ Trà tỳ của đức
Phật có một ngôi tháp thật lớn, hình dạng đặc biệt trông giống như một
ngôi mộ cổ vĩ đại. Tháp có chiều cao khoảng hơn 8 mét, đường kính của
tháp đến 34 mét. Niên đại của ngôi tháp chưa được xác định chính xác.
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn thì, nguyên thuỷ của ngôi bảo tháp này được
bộ tộc Malla gôm tất cả tro than sau lễ Trà Tỳ của đức Phật lại, và xây
một ngôi bảo tháp to lớn trên phần tro than ấy để tôn thờ, lễ bái, cúng
dường. Qua các thế kỉ về sau, rất có thể ngôi bảo tháp đuợc xây dựng
thêm cho cao và lớn hơn; cũng có thể trải qua thời gian ngôi bảo tháp bị
đập phá bởi con người, hay sự bào mòn và tàn phá của thời gian làm cho
ngôi tháp trở nên thấp và nhỏ đi. Ngài Huyền Trang khi đến chiêm bái
thánh tích này có đề cập đến ngôi bảo tháp và các di vật, nhưng ngài
không có mô tả về hình dáng và niên đại của ngôi tháp: “Về phía bắc của
thành này, sau khi băng qua dòng sông Ajitavati (A-tỳ-ba-phạt-để), và đi
khoảng hơn 300 bước, có một bảo tháp. Đây là nơi trà tỳ kim thân của
đức Như Lai. Đất chổ này trộn lẫn giữa đất và than, có màu vàng đen. Bất
cứ người nào với lòng chí thành nguyện cầu và tìm ở đây, chắc chắn sẽ
tìm thấy một vài xá lợi của đức Như Lai.”[9]
Xung quanh bảo tháp Trà tỳ có nhiều tháp nhỏ và nền móng các tháp, tinh
xá, tự viện… hầu hết các tháp và tinh xá này được xây dựng từ thế kỉ thứ
nhất trở về sau. Toàn bộ khu vực này được trồng những thảm cỏ xanh,
những cây cối và hoa kiểng rất đẹp. Nhưng hoa cỏ hình như cũng úa tàn
khi tâm trạng chúng ta luôn cảm thấy u buồn vì sự từ giả của một đấng
Thế Tôn: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ”[10]
Viện bảo tàng và các ngôi chùa gần thánh tích kushinagar:
Viện bảo tàng Kushinagar: với những công trình khảo cổ và khai quật tại
thánh tích Kushinagar từ đầu những năm đầu thế kỉ 19 đến nữa đầu thế kỉ
20, các nhà khảo cổ đã phát hiện rất nhiều di tích, cổ vật như: các
tranh tượng Phật, Bồ-tát, các khí cụ, mẫu vật bằng đồng, đá, đất v.v… có
những di vật cách đây hơn 2000 năm. Với những di vật đầy ý nghĩa lịch
sử và giá trị tôn giáo ấy, chính phủ Ấn đã xây một viện bảo tàng để bảo
vệ. Đây là một trong những viện bảo tàng lớn của tiểu bang này.
Các ngôi chùa gần thánh tích Kushinagar: Ngày nay, đến với thánh tích
Kushinagar, chúng ta còn được viếng thăm nhiều ngôi chùa của các nước
khác như: Chùa Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Nhật – Tich Lan, Tây Tạng
v.v… mỗi một ngôi chùa đều thể hiện những nét văn hoá kiến trúc cũng như
những phương thức tu tập đặc trưng của nước mình.
Chùa Việt Nam: Chùa này có tên là chùa Linh Sơn, tiền thân của ngôi chùa
này là chùa Trung Quốc có tên là Chùa Song Lâm do một Ni Sư người Hoa
trụ trì. Sau khi Ni Sư viên tịch, chùa được hiến cúng cho HT Huyền Vi
(lúc ấy là Viện chủ chùa Linh Sơn ở Pháp). Ngôi chùa được đổi tên là
chùa Linh Sơn, và Hoà Thượng đã cử sư cô Trí Thuận về trụ trì. Hiện nay
chùa Linh Sơn có diện tích rất rộng, và thật sự nổi bâc với những kiến
trúc về Tứ Động Tâm thu nhỏ, được xây dựng ngay trong khuôn viên chùa.
Chùa Miến Điện: Chùa được xây dựng vào năm 1945, mái chùa cong vút theo
kiến trúc đặc trưng của các nước Phật giáo Nam Tông như: Thái Lan, Lào,
Cam-pu-chia… Đặc biệt là ngôi bảo tháp Miến Điện, một ngôi tháp to lớn,
nhọn hoắt và vàng rực nổi bậc một vùng; bảo tháp này cũng là một trong
những mô hình kiến trúc về chùa tháp nổi tiếng của đất nước này.
Chùa Nhật – Tích Lan: Đây là một trong những ngôi chùa có kiến trúc rất
riêng, chùa được chính phủ Nhật tài trợ xây dựng, nhưng lại được chư
Tăng Tích Lan ở và tu tập. Chùa có kiến trúc hình vòm, theo hình dạng
của tháp Niết Bàn, với những sự thiết kế thờ phượng bên trong theo một
phong cách rất riêng.
Chùa Thái Lan: Nổi bậc hơn hết có lẽ là ngôi chùa Thái, chùa Thái được
hoàng gia Thái Lan tài trợ xây dựng. Chùa có một khuôn viên rất rộng,
chánh điện chùa được xây cao với mái chùa cong vút, chùa còn xây dựng
một bảo tháp rất đẹp, và những giảng đường, Tăng phòng, khách xá, toàn
thể khuôn viên chùa được trồng những hoa kiển, cây cối xanh tươi… đây
được xem là ngôi chùa đẹp nhất của khu vực này.
Hơn 2500 lịch sử Phật giáo đã đi qua, bước thăng trầm của Phật giáo cũng
theo dòng thịnh suy của thế gian biến chuyển không ngừng; Tứ Động Tâm
của Phật giáo có những lúc huy hoàng đón nhận sự qui ngưỡng của những
bậc đế vương và toàn thể thần dân Ấn Độ, cũng có những lúc suy tàn, rồi
bị chôn vùi vào cát bụi lãng quên. Ngày nay, với sự phát triển về thông
tin, về phương tiện đi lại, về kinh tế, kỉ thuật… đời sống của con người
nói chung hay của người Phật tử nói riêng cũng được nâng cao, nhờ thế
những sự trợ duyên ủng hộ Phật giáo cũng được phát triển. Tứ Động Tâm
của Phật giáo nói chung hay thánh tích Kushinagar nói riêng đã thật sự
chuyển mình thức dậy sau giấc ngủ ngàn thu. Có lẽ hơn lúc nào hết, ngày
nay, Tứ Động Tâm đã mở lòng đón nhận hang ngàn, hàng triệu người con
Phật khắp nơi trên thế giới trở về chiêm bái, tu tập, đó là một trong
những phước duyên tối thượng để tăng trưởng phước đức ngay giữa cuộc đời
ác trược đầy biến động này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét